Chỉ đường →
0
CHUYÊN BÁN ĐỒNG HỒ CỔ - UY TÍN - CÓ BẢO HÀNH
093 464 1088   024 6680 9640
HH1A - Chung cư HH Linh Đàm - Hoàng Mai - Hà Nội

SỐ TÀI KHOẢN
Đào Thị Hạnh 0451 001 392 115 - Vietcombank - Hà Nội
BANDONGHOCO.COM Tin mới
Đồng hồ cổ nhất Việt Nam vẫn chạy tốt

Dựa trên cái tài liệu, hồ sơ lưu lại cũng như ý kiến của nhiều nhà khoa học thì chiếc đồng hồ cổ nhất của Việt Nam được xác định là Đồng hồ thái dương (hay còn gọi là Đồng hồ mặt trời), được xây dựng vào những năm đầu thế kỷ XX.
Người Bạc Liêu có phong cách phóng khoáng, đặc trưng của vùng Nam Bộ. Nơi đây sản sinh ra những con người thông minh, tài trí, những nhà khoa học đầu tiên của đông dương. 

Dựa trên cái tài liệu, hồ sơ lưu lại cũng như ý kiến của nhiều nhà khoa học thì chiếc đồng hồ cổ nhất của Việt Nam được xác định là Đồng hồ thái dương (hay còn gọi là Đồng hồ mặt trời), được xây dựng vào những năm đầu thế kỷ XX.

Hiện nay chiếc đồng hồ độc đáo nằm trong khuôn viên của Trung tâm giáo dục thường xuyên Bạc Liêu (số 84, đường Hai Bà Trưng) ngay tại khu trung tâm thành phố Bạc Liêu.

[IMG]
Bạn Thúy Vi bên đồng hồ đá lúc 9h15p


Chiếc đồng hồ cổ độc đáo
Anh Đỗ Tấn Quốc, phóng viên báo Bạc Liêu - người rất am hiểu về chiếc đồng hồ cổ này cho biết, lúc bấy giờ cả khuôn viên rộng lớn của Trung tâm Giáo dục thường xuyên Bạc Liêu là dinh tỉnh trưởng. Thấy người dân đến liên hệ công việc mà không biết chính xác thời gian nên kỹ sư Lưu Văn Lang đã xây tặng ngài tỉnh trưởng người Pháp một chiếc đồng hồ thái dương, đặt phía trước phòng làm việc của tỉnh trưởng để bà con tiện theo dõi giờ giấc.

Đồng hồ xây bằng gạch tàu và xi măng cao khoảng 1m, rộng 0,8m, mặt quay về phía Bắc (có những bài báo cho rằng đồng hồ quay về hướng Đông là không chính xác), gồm 3 phần. Phần giữa hình chữ nhật đứng, nhô ra phía trước; hai mặt hai bên xây hình vuông, mỗi mặt khắc 6 chữ số La Mã theo hình vòng cung, biểu thị số giờ phía bên trái từ 6-12 giờ trưa và bên phải từ 12-17 giờ chiều. Ánh nắng chiếu xuống phần hình chữ nhật chính giữa tạo ra hai vùng sáng tối. Dãy phân cách vệt sáng - tối này xem như kim đồng hồ chỉ thời gian trong ngày, "chạy" rất chính xác.

Chính vì độ chính xác cao của chiếc đồng hồ cổ nên trong tư liệu còn ghi rất rõ là: "Lúc bấy giờ không chỉ ông thông, ông phán, ông huyện ghé xem giờ trước khi vào trình giấy mà cả quan ba, quan năm cũng ghé xem và vặn lại dây cót đồng hồ Tây của các quan cho chuẩn". Kỳ diệu là nó không cần đến bất cứ một loại máy móc, kim loại nào, chất liệu đơn thuần bằng gạch, xi măng chỉ lấy ánh sáng mặt trời để xem giờ. Nhưng sau gần 100 năm, chiếc đồng hồ này vẫn chạy khá chính xác như những chiếc đồng hồ hiện đại, chỉ sai lệch khoảng cộng trừ 2 phút vào những ngày ảnh hưởng chu kỳ của vòng quay trái đất.
[IMG]
8h30p chính xác trên chiếc đồng hồ cổ - Ảnh: Đặng Quang Vinh

3000 năm về trước những người Ai Cập cổ đại và những người Hy Lạp đã chế tạo ra chiếc đồng hồ đầu tiên trên thế giới- tên chúng là "Đồng hồ mặt trời" loại đồng hồ xem giờ bằng cách căn cứ vào ánh nắng mặt trời phản chiếu để biết thời gian. Rồi sau đó, đồng hồ nước, đồng hồ cát, đồng hồ nến, dây cót, quả lắc... Ngày nay các nhà khoa học đã tạo ra những loại đồng hồ điện, đồng hồ thạnh anh, đồng hồ nguyên tử với độ chính xác nên tới một phần nghìn triệu giây.

Người kỹ sư đầu tiên của Đông Dương
Theo tài liệu của Bảo tàng và thư viện tỉnh Bạc Liêu, Ông Lưu Văn Lang (1880 - 1969) quê ở làng Tân Phú Đông, hạt Sa Đéc (nay là tỉnh Đồng Tháp). Thuở nhỏ ông theo học chữ nho, 10 tuổi học chữ quốc ngữ, sau đó là chữ Pháp. Sẵn trí thông minh và học giỏi, ông được cấp học bổng lên Sài Gòn học trường Chasseloup Laubat. Năm 17 tuổi, ông đậu tú tài với số điểm cao nên tiếp tục được cấp học bổng qua học trường đào tạo kỹ sư lớn nhất nước Pháp lúc bấy giờ là École Centrale de Paris .

Năm 1904, ông tốt nghiệp kỹ sư hạng giỏi (đứng thứ 3 trong số 250 thí sinh), là kỹ sư đầu tiên người Việt được đào tạo tại Pháp, người dân Nam bộ thường gọi là bác vật Lang (cách gọi các kỹ sư của người miền Nam xưa). Về nước, nhà cầm quyền Pháp ở Việt Nam lúc bấy giờ cử bác vật Lang qua tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) tham gia thiết lập đường xe lửa nối liền Trung Quốc với Đông Dương.

Từ năm 1909 - 1940 ông làm việc tại sở Công chánh Sài Gòn. Là nhà khoa học xuất sắc nên được người Pháp giao theo dõi xây dựng cầu, đường ở miền Tây Nam bộ. Các tỉnh trưởng nơi đây rất quý trọng ông, đặc biệt tỉnh trưởng Bạc Liêu có mối giao hữu thâm tình.
Mỗi lần ông về công tác đều được tỉnh trưởng mời tới chơi, ăn cơm thân mật. Để đáp lại lòng hiếu khách, ông đã xây tặng tỉnh trưởng Bạc Liêu chiếc đồng hồ Thái Dương trên.

Nguyên lý hoạt động của của đồng hồ mặt trời là công cụ theo dõi thời gian dựa vào thiên văn và toán học. Để làm đồng hồ mặt trời phải biết được qui luật và bản chất vận động của Trái Đất và Mặt Trời. Người tạo ra chiếc đồng hồ này phải xác định được vĩ độ, kinh độ của địa điểm sẽ đặt chiếc đồng hồ này (ở đây là tỉnh Bạc Liêu). Sau đó dùng các công thức lượng giác để tính ra các góc của kim so với mặt đất, góc mặt đồng hồ so với phương thẳng đứng và góc giữ các vạch giờ với mốc 12h trưa. Điều này đòi hỏi người "chế tạo" ra những chiếc đồng hồ Thái Dương này ngoài tinh thông thiên văn còn phải có một kiến thức toán học rất sâu sắc.

Có một giai thoại rất nổi tiếng về vị kỹ sư này. Một lần, khi ông xuống Bạc Liêu thì công trình cầu Long Thạnh do Pháp xây dựng sắp xong, bác vật Lang lấy cây gậy gõ vào thành cầu rồi khẳng định với viên kỹ sư người Pháp một tháng nữa cầu sẽ sập (có người kể rằng ông còn đoán cả giờ cầu sập). Quá bất ngờ, viên kỹ sư Pháp tỏ ý phẫn nộ, nhưng sau đó đã bái phục bác vật Lang bởi đúng một tháng sau, cầu đó sập thật. Từ đó, người dân địa phương gọi cầu Long Thạnh là cầu Sập.

Bác vật Lang không chỉ là nhà khoa học tài ba mà còn là nhà trí thức yêu nước, tham gia vào các phong trào ái quốc ở Sài Gòn và Hà Nội. 1945, ông từng từ chối chức bộ trưởng Công Chánh thể hiện sự phản đối với chính quyền tay sai. Năm 1948, ông được Chính phủ kháng chiến mời làm cố vấn Hội trưởng Hội Liên Việt Sài Gòn - Chợ Lớn mới thành lập.
Sau Hiệp định Genève năm 1954, ông tham gia sáng lập phong trào Hoà Bình đòi thi hành Hiệp định, tổng tuyển cử thống nhất đất nước, được cử làm chủ tịch danh dự. Chính quyền Ngô Đình Diệm bắt giam ông cùng một số trí thức lãnh đạo phong trào, sau khi được thả thì bị quản thúc chặt chẽ đến năm 1958. Thời gian sau đó cho đến cuối đời, tuy không trực tiếp tham gia các hoạt động chính trị nữa, nhưng kỹ sư Lưu Văn Lang vẫn có những liên hệ bí mật với Ban Trí vận Trung ương Cục miền Nam và thường xuyên phổ biến các văn kiện của Mặt trận Dân tộc Giải phóng ngay giữa Sài Gòn.

Ông qua đời tại Sài Gòn ngày 3-6-1969, thọ 88 tuổi. Sinh thời, ông được đánh giá là một nhân tài của Việt Nam, nhà trí thức tiêu biểu cho nghĩa khí người Nam Bộ. Ngày 14-8-1975, Uỷ ban quân quản Sài Gòn đã đổi tên đường Tạ Thu Thâu bên hông chợ Bến Thành thành Lưu Văn Lang (nay thuộc quận 1, thành phố Hồ Chí Minh).

Ngày nay, tại thị xã Sa Đéc, Đồng Tháp cũng có một ngôi trường, một con đường mang tên ông. Bác vật Lang được giáo sư Văn Tạo - nguyên Viện trưởng viện Sử học Việt Nam - trong lần về Bạc Liêu vào năm 2004 phát biểu: Ông Lưu Văn Lang thật sự là một nhân tài, một nhà khoa học uyên bác ở Nam Bộ.

Kỳ bí giai thoại về kĩ sư Lưu Văn Lang
Tại núi Cấm (tỉnh An Giang) ngày nay vẫn còn có một hang núi mang tên Bác Vật Lang. Người ta giải thích việc lý do hang lại có tên này như sau: Đầu thế kỉ XX, khi người Pháp thám sát chiếc hang trên, họ nhận thấy trong hang rất tối, lạnh lẽo, thiếu dưỡng khí nên mọi thứ đèn đuốc đều khó cháy sáng. Bó tay, họ đã mời kĩ sư Lang đến khảo sát, thòng dây thả ông xuống thám sát lòng hang. Sau gần một ngày xem xét ở dưới hang, ông trở lên mặt đất nhưng không nói một lời nào về chiếc hang, mặc mọi người gặng hỏi. Từ đó, người địa phương gọi tên hang theo tên ông. Hang núi ngày nay đã bị lấp miệng, người đời không ai biết bên dưới hang có gì nên mới có câu: "Đàn kêu tích tịch, tình tang/ Đố ai biết được trong hang là gì? Đàn kêu tích tịch , tì tì/ Đố ai biết được cái gì trong hang?"
Gia Hoàng
CÁC TIN KHÁC